Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ với con và của con với cha, mẹ; nghĩa vụ cấp dưỡng của vợ, chồng khi ly hôn và khi còn đang chung sống vẫn luôn là vấn đề được mọi người quan tâm nhất hiện nay. Vậy thì thực tiễn pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào?
- Cấp dưỡng, các trường hợp phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Việc cấp dưỡng giúp các thành viên thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối với gia đình và xã hội, là cơ sở pháp lý gắn kết các thành viên trong gia đình hay trong một cộng đồng trách nhiệm. Tại Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2014 đã ghi nhận:
“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này”.
Về bản chất, quan hệ cấp dưỡng tồn tại giữa hai chủ thể, một bên là người có nghĩa vụ cấp dưỡng và một bên là người nhận cấp dưỡng (người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014). Quan hệ cấp dưỡng là một trong các quan hệ đặc trưng trong lĩnh vực HN&GĐ.
Thứ nhất, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các chủ thể trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Theo đó, tại khoản 1 Điều 107 Luật HN&GĐ năm 2014 đã xác định rõ:
“Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này”.
Có thể là thành viên trong gia đình hoặc không phải là thành viên trong gia đình nhưng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Luật hiện nay mở rộng phạm vi quy định về quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột (Điều 114).
Thứ hai, nghĩa vụ cấp dưỡng không chỉ là quan hệ nhân thân mà còn mang tính tài sản (không mang tính đền bù ngang giá). Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp một số tiền hoặc tài sản nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cho người được cấp dưỡng. Trường hợp bên có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, không thể thực hiện việc cấp dưỡng thì tuy nghĩa vụ cấp dưỡng chưa chấm dứt, nhưng ý nghĩa thực tế của nghĩa vụ này cũng hầu như không có, bởi vì lợi ích tài sản của nghĩa vụ không còn tồn tại.
Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện một cách tự nguyện, do yếu tố tình cảm, không tính toán đến giá trị tài sản đã cấp dưỡng, không đòi hỏi người được cấp dưỡng phải hoàn lại một số tiền tương ứng.
Thứ ba, nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác. Bên có nghĩa vụ cấp dưỡng không thể cam kết sẽ dùng nghĩa vụ khác để thay thế, bù trừ nghĩa vụ cấp dưỡng như là bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm. Chủ thể có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng không thể chuyển giao nghĩa vụ cấp dưỡng cho bất cứ ai.
Thứ tư, nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh khi quan hệ nuôi dưỡng không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ thì lúc đó quan hệ cấp dưỡng mới xuất hiện. Bất kỳ thành viên nào trong gia đình cũng có thể rơi vào hoàn cảnh không đầy đủ hoặc thiếu hụt về phương diện nào đó; nhưng chỉ khi có sự thiếu hụt về vật chất, làm ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới đặt ra. Điều này biểu hiện ở chỗ, người đó gặp khó khăn, túng thiếu hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Chủ thể không chỉ là thành viên gia đình trong mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng mà còn phải thoả mãn những điều kiện nhất định về độ tuổi, tình trạng nhân thân, tài sản…
Thứ năm, nghĩa vụ cấp dưỡng thông qua lương tâm, đạo đức, xuất phát từ ý thức, trách nhiệm, dư luận xã hội và cả các biện pháp cưỡng chế thi hành.
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định những trường hợp phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng như sau: Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con (Điều 110); nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ (Điều 111); nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em (Điều 112); nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu (Điều 113); nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột (Điều 114) và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn (Điều 115). Điều kiện chung để phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng bao gồm: (i) Nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh từ quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng; (ii) người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng không sống chung với nhau. Bên cạnh đó, nghĩa vụ cấp dưỡng cũng phát sinh trong trường hợp các chủ thể có sống chung với nhau, đó là trong quan hệ giữa cha, mẹ và con, nghĩa vụ cấp dưỡng có thể phát sinh khi cha, mẹ ly hôn, người không trực tiếp nuôi con phải chi trả tiền cấp dưỡng cho người nuôi con trực tiếp; hoặc trường hợp vẫn sống chung, nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng.
- Một số vấn đề trao đổi về nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con và của vợ, chồng khi ly hôn
2.1. Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ với con
Thứ nhất, điều kiện cha, mẹ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng với con: Pháp luật quy định độ tuổi và khả năng của con là điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con. Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Trường hợp cha, mẹ ly hôn khi con chưa đủ 18 tuổi, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ phải chi trả tiền cấp dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho con về tài sản cho đến khi con trưởng thành.
Điều 110 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”.
Đối với con đã thành niên, cha, mẹ vẫn có trách nhiệm phải chi trả cấp dưỡng nếu thuộc các trường hợp sau: Con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Không có khả năng lao động có thể là do già yếu, mất sức lao động, bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự… Người thành niên mà thường xuyên cần phải có người chăm sóc và rơi vào những trường hợp như đã liệt kê thì mới xác định họ “không còn khả năng lao động”. Việc nhận định “không có khả năng lao động” tùy thuộc vào sự đánh giá của Thẩm phán, Hội đồng xét xử.
Thứ hai, về trách nhiệm, nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con: Khoản 2 Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2014, có thể thấy cha hoặc mẹ, bên không trực tiếp nuôi dưỡng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi có sự kiện ly hôn.
Nguyên tắc xem xét nguyện vọng không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của bên được giao nuôi con vẫn phải tuân thủ hướng dẫn tại điểm 11 Nghị quyết số 02/2000, cụ thể: “Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con”.
2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha, mẹ
Trong quan hệ giữa con với cha, mẹ, nghĩa vụ cấp dưỡng được đặt ra đối với con đã thành niên và không sống chung với cha, mẹ. Tương tự, điều kiện đối với bên được nhận cấp dưỡng là cha, mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Tuy nhiên, nghĩa vụ này chỉ đặt ra khi con có khả năng về kinh tế, đủ đảm bảo được cuộc sống của chính mình. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy định “con từ đủ 15 tuổi trở lên sống chung với cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; đóng góp vào việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nếu có thu nhập” (khoản 2 Điều 75). Trong thực tế, nhiều trường hợp cha, mẹ túng thiếu, không có khả năng lao động và không có đủ tài sản để tự nuôi mình mà người con đã từ 15 tuổi trở lên có tài sản riêng nhưng không sống chung với cha, mẹ thì con cũng có nghĩa vụ đóng góp vào nhu cầu sống thiết yếu của cha, mẹ, nhằm đảm bảo sự thống nhất, chặt chẽ hơn giữa các điều luật, đồng thời ràng buộc hơn trách nhiệm của con đối với cha, mẹ.
2.3. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn và khi còn đang chung sống
Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn là một bên có khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng có thể phát sinh ngay cả khi hôn nhân đang tồn tại, khi có những điều kiện sau:
– Khi vợ, chồng không sống cùng và sống xa nhau, vì nhiều ý do như điều kiện công tác, mâu thuẫn về tình cảm nhưng không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng (hình thức ly thân), do đó, xin chia tài sản chung…
– Trong điều kiện sống xa nhau mà một bên vợ hoặc chồng lâm vào tình trạng túng thiếu, khó khăn do bị tai nạn, mất sức lao động, ốm đau, sinh đẻ… Sự túng thiếu, khó khăn đó phải có lý do chính đáng thì mới có cơ sở buộc người kia phải cấp dưỡng.
– Tài sản chung của vợ, chồng không có hoặc có nhưng không đủ để đảm bảo cuộc sống bình thường của người túng thiếu, khó khăn. Trong khi đó, người vợ hoặc người chồng có tài sản riêng. Ví dụ: Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, toàn bộ tài sản chung được chia hết, hai vợ chồng ở riêng. Người vợ bị bệnh hiểm nghèo phải sử dụng hết số tiền được chia nhưng vẫn không đủ, do phải điều trị lâu dài. Trong trường hợp này, người chồng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Việc cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi hôn nhân đang tồn tại tuy ít khi xảy ra vì vợ, chồng đã trực tiếp chăm sóc nhau bằng tài sản chung nhưng trong trường hợp đặc biệt như đã phân tích, sự cấp dưỡng cho một bên vợ hoặc chồng ở xa, gặp khó khăn lại là cần thiết.
Trên đây là những thông tin cơ bản về nghĩa vụ cấp dưỡng của Công ty Luật Tuệ Lâm về một trường hợp điển hình. Để biết thêm thông tin chi tiết, bạn vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn trực tiếp.