Trả lời:
Theo Khoản 3 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định thì những tranh chấp, về dân sự, hôn nhân gia đình mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.
Như vậy, căn cứ vào quy định nêu trên thì hiện nay do chồng của bạn đang ở nước ngoài nên việc xin ly hôn của bạn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Như vậy để ly hôn thì chị cần phải nộp hồ sơ ly hôn và tài liệu kèm theo đến tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi chồng chị cư trú ở Việt Nam trước khi xuất khẩu lao động.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì trong đơn khởi kiện người khởi kiện phải cung cấp được địa chỉ của người bị kiện. Do vậy, để nộp đơn xin ly hôn và được tòa án thụ lý giải quyết thì chị phải cung cấp được địa chỉ cư trú hiện tại ở nước ngoài của chồng chị.
Tuy nhiên chồng chị và nhà chồng chị cố ý không cho chị biết địa chỉ tại nước ngoài thì có thể giải quyết như sau:
Theo Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP (ngày16/04/2003,của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, HN&GĐ), trường hợp bên đương sự là bị đơn đang ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức hoặc giấu địa chỉ nên nguyên đơn ở trong nước không thể biết địa chỉ, tin tức của họ, thì giải quyết như sau:
– Nếu bị đơn ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức gì về họ (kể cả thân nhân của họ cũng không có địa chỉ, tin tức gì về họ), thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định khi không tìm được địa chỉ của bị đơn và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú tuyên bố bị đơn mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật về tuyên bố mất tích, tuyên bố chết.
– Nếu thông qua thân nhân của họ mà biết rằng họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước, nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Toà án, thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.
Trên đây là tư vấn của Công ty Luật TNHH Tuệ Lâm. Để biết thêm thông tin chi tiết, bạn vui lòng liên hệ với chúng tôi theo:
– Hotline: 0933898868
– Email: info@luattuelam.vn
Trân trọng cảm ơn!