Trả lời:
Về hành vi của bạn, trong trường hợp này cần xác định có phải là hành vi phòng vệ chính đáng hay không. Điều 22 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về phòng vệ chính đáng như sau:
“Điều 22. Phòng vệ chính đáng
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.”
Các yếu tố để xác định có phải là phòng vệ chính đáng hay không:
– Thứ nhất, lợi ích của người có hành vi chống trả hoặc người khác đang bị xâm phạm. Trong trường hợp này, chồng bạn đang bị xâm phạm về tính mạng, sức khỏe nên yếu tố này có thể coi là thỏa mãn điều kiện.
– Thứ hai, hành vi chống trả là cần thiết.Trong trường hợp của bạn, cần xem xét đến phương tiên, vũ khí mà anh hàng xóm sử dụng để xâm hại sức khỏe của chồng bạn, mức độ thương tích mà anh hàng xóm gây ra cho chồng bạn,…
– Thứ ba, người bị chống trả là người đang có hành vi xâm hại lợi ích của cá nhân, Nhà nước, cơ quan, tổ chức.
Chúng tôi xin được chia ra các trường hợp như sau:
Trường hợp thứ nhất: Nếu hành vi của bạn thỏa mãn được những yếu tố nêu trên và được kết luận là hành vi phòng vệ chính đáng thì bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh hàng xóm.
Trường hợp thứ hai: Hành vi của bạn là hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo Khoản 2 Điều 22 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, khi đó người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định:
“Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.“
Như vậy với hành vi gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 31% trở lên mới đủ đề cấu thành tội phạm. Trong trường hợp của bạn, với hành vi gây thương tích cho người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà tỷ lệ tổn thương cơ thể là 3% thì cũng chưa đủ để cấu thành tội phạm. Khi đó, bạn sẽ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự cho anh hàng xóm nếu anh ta có yêu cầu.
Nếu không có yếu tố nào, việc gây thương tích cho người khác với tỷ lệ tổn thương là 3% có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm e Khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
“Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng…
3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác;
b) Lôi kéo hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng;
c) Thuê hoặc lôi kéo người khác đánh nhau;
d) Gây rối trật tự tại phiên tòa, nơi thi hành án hoặc có hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động xét xử, thi hành án;
đ) Gây rối trật tự tại nơi tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế;
e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;…”
Bên cạnh đó, tội phạm quy định tại Điều 134 và 136 Bộ Luật hình sự năm 2015 thuộc nhóm những tội phạm chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của bị hại. Điều này được quy định tại Điều 155 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2015 như sau:
“Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
Theo đó, cơ quan điều tra chỉ được quyền khởi tố vụ án hình sự khi người bị hại có yêu cầu khởi tố. Trong trường hợp này, bị hại là anh hàng xóm và đã gửi đơn yêu cầu. Tuy nhiên, nếu bạn có thể thỏa thuận với anh kia và thuyết phục anh hàng xóm rút yêu cầu thì cơ quan điều tra sẽ phải đình chỉ vụ án. Sau khi anh hàng xóm rút yêu cầu một cách tự nguyện theo ý chí của mình, thì sẽ không có quyền yêu cầu lại để khởi tố vụ án hình sự về hành vi phạm tội.
Ngoài ra, anh hàng xóm cũng có những hành vi xâm phạm đến sức khỏe của chồng bạn, do đó chồng bạn cũng nên đi xác định tỷ lệ tổn thương do hành vi của anh kia gây ra và tố cáo trong trường hợp đủ yếu tố cấu thành tội phạm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chồng bạn.
Trên đây là tư vấn của Công ty Luật TNHH Tuệ Lâm. Để biết thêm thông tin chi tiết, bạn vui lòng liên hệ với chúng tôi theo:
– Hotline: 0933898868
– Email: info@luattuelam.vn
Trân trọng cảm ơn!